Lịch sử Harta, Ba Lan

Một phần bản đồ địa hình Vương quốc Galicia và Lodomeria 1779–1783, thể hiện làng Harta

Giai đoạn đầu

Con người đã định cư tại Harta ngày nay từ thời tiền sử.[57] Các cuộc khảo cổ thập niên 1970 đã phát hiện các bằng chứng về những khu định cư thời đồ đá mới ở thung lũng sông San. Tại vị trí sân vận động ngày nay có tìm được một mảnh tước đá lửa và mảnh vỡ thuyền tiền sử.[25] Tiếp tục mở rộng khai quật, các nhà khảo cổ tìm thấy chiếc rìu đá ở Harta Dolna, dấu vết của nền văn hóa Corded Ware.[58]

Đồng thời cũng có bằng chứng về con người thời La Mã ở Harta Dolna chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Przeworsk đã phát triển.[59] Hàng chục mảnh kim khí thời đó đã được tìm thấy ở ba địa điểm khác nhau bao gồm: gốm xám,[25] cho thấy con người đã sống ở Harta ít nhất là từ thế kỷ 12 đến thế kỷ thứ 5 TCN[60] cho đến thế kỷ 4.[61]

Từ đó dẫn đến việc thành lập làng Harta có thể xảy ra thời Kazimierz III giống như nhiều thị trấn lân cận khác.[62] Chủ sở hữu đầu tiên là Piotr Kmita mang gia huy Szreniawa.[63] Các lãnh địa này cùng với Dubiecko, Iskań, Stupnica và Ruszelczyce được vua Władysław II Jagiełło phong thưởng năm 1389.[64] Piotr mất năm 1409, để lại tài sản cho con trai là Piotr Lunak Kmita.[65] Thủ phủ lãnh địa là làng Bachórz cho đến đầu thế kỷ 15 thì thị trấn Dynów tiếp nhận chức năng hành chính và vị thế đô thị vùng.[66]

Tương truyền Harta Dolna (Antiqua) được các tù binh trong trận Grunwald[44] thành lập khoảng 1410–1412 do nhà quý tộc Strzałkowski lãnh đạo. Harta Górna (Nova) bắt đầu hình thành khoảng 1440–1445 từ cư dân Harta Dolna và vùng phụ cận, cũng như những người Tatar bị chủ nhân Harta khi ấy là Małgorzata bắt giữ gần Lviv.[46] Theo truyền thống, trung tâm làng nằm gần nhà thờ ngày nay, khớp với các luận điểm khảo cổ học.[67]

Ngôi làng được thành lập theo luật German,[45] nhưng hiện không còn giữ được tài liệu pháp lý ghi rõ địa điểm nào. Văn bản đầu tiên còn giữ được đề cập đến Harta là từ ngày 1 tháng 1 năm 1429, khi trưởng làng Wienczko ("Wienczkone sculteto de Harta") là người làm chứng về vị trí làng Kąkolówka gần đó.[42][45] Cùng năm đó, Piotr Kmita cam kết trả địa tô của làng cho Piotr Smolicki là người sau này đứng đầu Sanok.[68] Năm 1429 hiện được coi là năm thành lập làng để tổ chức kỷ niệm truyền thống.[69]

Đại diện làng Harta cũng có mặt tại các sự kiện khác. Trưởng làng Wienczko tham gia làm chứng cho nhà thờ ở Błażowa năm 1432, trưởng làng Nicolao làm chứng cho Futoma năm 1439.[42] Năm 1491, Andrzej con trai Jerzy đến từ Harta đăng ký vào Học viện Krakow, và sau đó rất có thể đã được phong tước quý tộc năm 1509.[70]

Sau khi Piotr Lunak qua đời năm 1430, Harta thuộc sở hữu con trai ông Jan tên Tępy (hoặc Jan làng Bachórz).[65] Sau khi Jan qua đời năm 1434, tài sản vào tay vợ góa ông là Barbara. Đến lượt Barbarađể lại gia sản cho các con nhưng còn nhỏ tuổi nên được chủ lâu đài Przemyśl Mikołaj Kmita quản lý thay.[64] Khi các con Barbara qua đời năm 1436, em gái Jan là Małgorzata buộc tội Mikołaj Kmita chiếm đoạt gia sản. Năm 1441, sau 5 năm tranh chấp pháp lý, bà thắng kiện và được tiếp quản.[68][71]

Małgorzata kết hôn với Jan Goligyan làng Strzałkowo và có một trai là Stanisław Denowski (còn được gọi là Stanisław Strzałkowski).[72] Sau khi Jan qua đời, Małgorzata tái hôn với Przingpełk Mościc đến từ Wielki Koźmin.[73]

Năm 1460, thời bà Małgorzata, giáo xứ Harta được thành lập. Tài liệu gốc về sự kiện này đã bị mất trong chiến tranh Thụy Điển. Việc này có thể do Giám mục Przemyśl Mikołaj xứ Błażejów thực hiện khi quản hạt giai đoạn 1452–1474. Cũng trong năm 1460, mẹ con Małgorzata đã dựng nhà thờ thánh Nicôla bằng gỗ đầu tiên tại Harta.[74][75] Małgorzata mất năm 1464; Stanisław Denowski làm chủ, ông cũng thiệt mạng khi hành quân tới Silesia năm 1475.[72]

Sau Stanisław, con trai ông là Jan Denowski tiếp nhận gia sản. Jan làm thị vệ Sanok, có vợ là Jadwiga Zarembianka đến từ Kalinowa; nhưng hai người không có con cho đến khi mất năm 1493.[72] Anh em họ của Jan là Piotr và Mikołaj thuộc gia tộc Rzeszowski kế thừa gia sản. Năm 1496, Harta và những lãnh địa xung quanh được bán cho Jan Amor Tarnowski, đến lượt ông lại để lại cho trai mình là Jan Amor con.[42][76]

Năm 1503, Harta và vùng phụ cận lần đầu tiên bị chiến tranh tàn phá. Người Tatar hỏa thiêu Dynów (vua Aleksander Jagiellończyk sau đó miễn thuế cho thị trấn) để đáp trả việc Jan I Olbracht đánh Bukovina.[77]

Khi ấy, Harta gồm hai thị trấn: Harta Antiqua (Harta cũ, nay là Harta Dolna) và Harta Nova (Harta mới, nay là Harta Górna) được đề cập trong nhiều nguồn tư liệu thế kỷ 15, sau đó hợp nhất thành một.[6] Hợp phần thứ ba là Lipnik, chỉ được nhắc đến lần đầu tiên năm 1735.[78] Cuối thế kỷ 15 và 16, trong làng có một cối xay gió[79] và một quán trọ,[42] bản thân làng và dân làng cũng thường bị thế chấp để trả nợ.[68]

Thế kỷ 16-18

Nhà thờ Thánh Nicôla

Năm 1523, Harta thuộc sở hữu nhà Wapowski khi Piotr và Hieronim mua với giá 11.400 złoty.[42] Andrzej là con trai Piotr kế thừa làng, ông kết hôn với Katarzyna Maciejewska nhà Ciołek. Năm 1574, Samuel Zborowski giết Andrzej, vợ góa Katarzyna và con trai bà Jan Stanisław nhận làng. Năm 1596, Katarzyna qua đời, Jan đồng sở hữu với vợ là Katarzyna xứ Stremberg.[80]

Năm 1624, Harta và vùng phụ cận bị phá hủy khi Hãn Temir xâm lược,[73] nhiều dân làng bị giết hoặc bị bắt đi làm nô lệ.[81] Những người này hầu hết được hồi hương sau khi Hãn Temir thua trận Martynów.[82]

Năm 1632, con trai Jan Stanisław là Karol và Mikołaj Wapowski kế thừa gia sản. Vài năm sau, nhà thờ mới được xây dựng trên nền nhà thờ cũ đã bị phá hủy.[83] Khoảng năm 1640, giám mục Piotr Gembicki nhà Nałęcz đã thánh hiến trong thời gian chức vụ 1636–1642.[75]

Từ năm 1640, thông tin của làng có trong Sổ địa chính Sanok (tiếng Ba Lan: Rejestr poborowy ziemi sanockiej). Theo sổ này, Harta khi ấy có 5 cánh đồng đất canh tác tương đương 120 ha (so sánh với số liệu 1.500 ha năm 2018).[84] Có một cối xay trong làng. Danh sách còn liệt kê ba hộ điền chủ (zgrodnik) và sáu hộ nông nô (komornik); ước tính dân số Harta khi ấy là từ 95 đến 110 người.[85]

Năm 1644, anh em Wapowski phân chia tài sản; Mikołaj nhận Bachórz rồi bán cho Jerzy Kazimierz Krasicki, còn Karol nhận Dynów, Harta, Lipnik, Wesoła, Łubno, Kazimierówka và bán cho Marcin Konstanty Krasicki. Marcin lại giao Harta cho con trai mình là Jerzy. Năm 1687, Jerzy qua đời, vợ ông là Teofila Czartoryska kế thừa. Teofila tái hôn với Đại hetman Litva Grzegorz Antoni Ogiński. Năm 1709, con gái Teofila và Grzegorz là Eufrozyna tiếp quản, có chồng là Piotr Pac.[86] Sau đó lại truyền tiếp cho con gái Elżbieta, vợ Piotr Ożarowski.[87][88]

Làng bị phá hủy nhiều lần trong khoảng thời gian này. Năm 1655, làng bị quân Thụy Điển phá trong Chiến tranh Ba Lan-Thụy Điển. Năm 1657, George II Rákóczi dẫn quân Transylvania hỏa thiêu một phần Dynów và nhiều làng xung quanh.[89][83] Năm 1691, Dynów hưởng đặc quyền nhằm "phát triển thành bị tàn phá kể từ chiến tranh Hungary" cho thấy mức độ tàn khốc lớn như thế nào.[90]

Năm 1702, Harta nằm trong khu vực bị ảnh hưởng của Đại chiến Bắc Âu, cũng như Augustus IIStanisław Leszczyński tranh giành ngai vàng Ba Lan.[82] Tháng 11 năm ấy, tướng Thụy Điển Magnus Stenbock sai quân đánh Dynów, do chủ nhân Grzegorz Ogiński là người ủng hộ Augustus II. Quân Thụy Điển thất bại nhưng vẫn tàn phá được Dynów.[91] Hai phe đều tiến hành cướp bóc vùng này. Vài năm sau, sau trận Poltava, Sa hoàng Pyotr I cũng kéo quân Nga qua cướp phá.[90] Ngoài chiến tranh thì khoảng năm 1711, Harta cũng bị lụt và nạn dịch châu chấu.[92]

Nhà Skrzyński

Nhà Skrzyński năm 1925. Bên phải là chủ nhân Harta Zdzisław Skrzyński, bên trái là vợ Celina, đằng sau bà là anh trai ông Władysław

Giữa thế kỷ 18, nhà Skrzyński từ SkrzynnoMasovia là chủ nhân Harta. Đầu tiên là Józef Skrzyński (1668–1763)[93] chuyển đến ở[51] sau khi mua Harta, Lipnik, LaskówkaKolorowa từ Aniela nhũ danh Ogińska, vợ Feliks Parys và chị gái Eufrozyna Ogińska.[94][95]

Tiếp theo đến con trai Józef là Ignacy Skrzyński.[95] Ignacy ghi dấu trong lịch sử làng khi xây dựng nhà thờ mới ở Harta Dolna theo phong cách Phục hưngBaroque trong những năm 1779–1804.[96][97]

Con trai Ignacy là Wincenty Skrzyński làm chủ Harta ít nhất từ năm 1810.[98] Wincenty chủ yếu tham gia buồn tiền, là người tham vọng và có mục tiêu trở thành bá tước.[99] Ông đóng góp vào sự phát triển kinh tế tại vùng này: trại cừu (năm 1824 có 1.300 con cừu)[100] xưởng kéo sợi ở Harta, các nông sản từ Bachórz được đánh giá cao tại hội chợ triển lãm.[101] Chăn nuôi cừu mở ra các xưởng dệt nhỏ.[102] Tháng 1 năm 1850, Wincenty qua đời,[99] tài sản chia cho vợ góa và năm con trai, theo đó Harta và Bartkówka thuộc phần người con thứ hai là Ignacy.[103]

Năm 1846, hưởng ứng nổi dậy ở Galicia, nông dân Harta cũng đứng lên làm loạn. Nhưng quy mô bạo loạn nhỏ[83] so với Bachórz gần đó, nơi trang viên Skrzyński bị phá hủy[99] và một số nông dân thiệt mạng.[104]

Thế kỷ 19, dưới quyền sở hữu nhà Skrzyński, Harta đã phát triển nhanh chóng. Năm 1860 dựng cối xay nước.[105] Trước năm 1877 có xưởng cưa bên cạnh cối xay. Đến năm 1880 thì có xưởng chưng cất rượu, xưởng nấu bia và xưởng xén lông cừu hoạt động trong làng.[106] Cối xay hoạt động nhờ ao chứa nước gần đó, độ sâu thay đổi từ 1,2 đến 3 mét. Ở mức nước thấp, cối xay cho ra 2 giạ bột mịn hoặc 4 giạ bột mì nguyên hạt mỗi ngày (tương ứng khoảng 250 hoặc 500 lít), còn ở mức cao là 6 giạ bột mịn hoặc 10 giạ bột mì nguyên hạt (750 và 1250 l). Xưởng cưa xử lý được 3 mẻ một ngày.[107]

Văn hóa xã hội cũng phát triển. Năm 1863, cha xứ xây dựng nhà thờ giáo xứ mới.[108] Thập niên 1880, nhà thờ có thêm tháp chuông. Năm 1889, nhà thờ có thêm các nhà nguyện và hàng rào bao quanh.[96] Năm 1875, trường làng một lớp được mở ở Harta Dolna.[109] Năm 1899, trường mới mở tại Harta Górna, có tòa nhà mới vào năm 1912.[110]

Từ năm 1869-1874,[111][112] Ignacy trao gia sản Harta và vùng phụ cận cho con trai là Zdzisław. Năm 1872, Zdzisław cưới nữ bá tước Celina Dunin-Borkowska nhà Łabędź. Năm 1927, Zdzisław qua đời,[51] Celina đồng thừa kế Harta với anh trai Zdzisław là đại sứ Ba Lan tại Vatican Władysław. Năm 1934, Celina qua đời.[113] Chủ nhân lãnh địa cuối cùng là cháu gái bà - nữ bá tước Maria Celina Kazimiera nhà Łabędź.[51]

Thế chiến thứ nhất

Đài tưởng niệm Ba Lan giành lại độc lập và liệt sĩ hy sinh trong trận Warszawa

Năm 1914, Thế chiến thứ nhất bùng nổ. Tháng 8, quân Áo tổng động viên gần Dynów,[114] và bắt đầu trưng thu lương thực thực phẩm với quy mô lớn vào tháng 9.[115] Sau đó, quân Áo rút về Pháo đài Przemyśl phía sau phòng tuyến sông Dunajec.[116] Cuối tháng 9, tướng Radko Dimitriev dẫn Tập đoàn quân 3 Nga tiến vào vùng này nhằm chiếm Przemyśl nhưng thất bại.[115] Quân Áo tập hợp lại phá vỡ vòng vây trong tuần đầu tiên của tháng 10. Chiến sự diễn ra gần Harta cùng những địa điểm khác. Ngày 8 tháng 10 năm 1914, trên những ngọn đồi phía đông làng, quân Áo đánh bại một đơn vị nhỏ quân Nga.[117] Chỉ vài tuần sau, vào tháng 11, Tập đoàn quân 3 lại vượt sông San về phía tây và quân Nga bắt đầu vây hãm Przemyśl lần hai.[118]

Lính Nga không quấy rối dân làng,[115] không xảy ra các vụ cướp bóc[119] (khác quân CircassiaCossack vẫn hay cướp bóc dân thường[120]). Quân Nga cho phép người Ba Lan vẫn quản lý hành chính trong vùng với lòng khoan dung đặc biệt.[121] Để bảo vệ danh tiếng cá nhân và quân đội, tướng Dimitriev chỉ cho phép trưng thu lương thực, thức ăn gia súc và chỗ ở tại khu nông thôn.[115][122]

Năm 1914-1915, quân Áo cố tái chiếm Dynów nhưng bất thành. Tháng 3 năm 1915, Przemyśl thất thủ, toàn vùng do quân Nga kiểm soát. Ngày 11 tháng 5 năm 1915, quân Nga rút lui trước khi phe Liên minh Trung tâm phản công.[123] Ngày 12, tướng August von Mackensen chỉ huy quân Đức tiến vào Dynów.[124] Mặt trận Nga gần như sụp đổ hoàn toàn, Áo giữ Dynów cho đến hết chiến tranh. Ngày 28 tháng 10 năm 1918, Ủy ban thanh lý Ba Lan (tiếng Ba Lan: Polska Komisja Likwidacyjna) lên nắm quyền ở Galicia và trao lại cho chính quyền trung ương Ba Lan từ ngày 7 tháng 3 năm 1919.[125]

Giữa hai thế chiến

Đài tưởng niệm nông dân nổi dậy ở Harta năm 1937

Ngay khi kết thúc chiến tranh, các tổ chức xã hội ở Harta phát triển nhanh chóng. Năm 1907, trong chuyến giám mục viếng thăm, hiệp hội Công giáo-xã hội ra đời liên kết với ngân hàng tiết kiệm Raiffeisen có từ một năm trước đó.[126]

Harta phát triển phong trào hợp tác xã. Năm 1908, Hợp tác xã sữa "Pomoc" được thành lập. Năm 1938, các cổ đông đóng góp dựng xưởng chế biến sữa bò trong làng.[127][128][129] Nông dân tham gia Mạng lưới Nông nghiệp điều hành một cửa hàng trong làng.[130][131][132] Mạng lưới Nông nghiệp (sau này lấy tên là Hợp tác xã Thương nghiệp Rolnik) nằm trong Mạng lưới kết nối Nông nghiệp ở Dynów từ năm 1918, sau Thế chiến thứ hai chuyển thành Hợp tác xã Samopomoc Chłopska.[133] Năm 1929, trong làng có xưởng chưng cất rượu, quỹ tiết kiệm Stefczyk, nhà máy xay xát, xưởng cưa, xưởng đóng ngói, xưởng khai thác gỗ, 5 cửa hàng tạp hóa và một cửa hàng rượu.[132]

Giáo hội Công giáo có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển xã hội. Năm 1925, Hội nam thanh niên Công giáo được thành lập với 47 thành viên.[134] Cuối thập niên 1930, Harta có các hiệp hội công giáo theo giới tính và cả cho nữ giới trẻ.[135] Giới trẻ cũng tham gia Hiệp hội Thanh niên Nông thôn Cộng hòa Ba Lan Wici.[136][137] Năm 1936, Hiệp hội Trường học (tiếng Ba Lan: Towarzystwo Szkoły Ludowej) được thành lập tại Harta Górna,[138] có thư viện cố định và di động[139] cùng phòng đọc và phòng sinh hoạt chung.[140] Hiệp hội có 87 thành viên, thực hiện công tác giáo dục và thực hiện các hoạt động giáo dục, bao gồm cả Đại học tại chức phổ thông Nông thôn Chủ nhật. Năm 1937, có 158 người được đào tạo do hiệp hội tổ chức (phổ thông, dạy nghề). Ngoài ra còn có tổ chức biểu diễn sân khấu.[141]

Từ nửa sau thế kỷ 19, sau khi có quyền tự chủ vào nửa sau thế kỷ 19, đời sống chính trị Galicia bắt đầu phát triển. Năm 1895, Đảng Nhân dân (tiếng Ba Lan: Stronnictwo Ludowe) được thành lập, có vị trí đặc biệt vững chắc.[142] Thập niên 1930, Harta có ba chi hội đảng: Harta-Lipnik, Harta-Środek và Harta-Górna.[143] Tháng 1 năm 1938, đảng phô diễn sức mạnh và sự ủng hộ khi gần 200 đại biểu từ các huyện xung quanh về dự họp mặt dịp Giáng sinh.[144]

Quan điểm chính trị của cư dân Harta cũng được minh họa rõ ràng qua kết quả bầu cử vào Hạ viện (Hạ viện lập pháp năm 1919 và Cộng hòa Ba Lan từ 1922), nông dân và dân thường ủng hộ nhiệt tình, bất chấp kích động chính trị gay gắt và sự chống đối từ người thừa kế dòng họ Skrzyński cùng các linh mục.[145]

Trong cuộc bầu cử vào Hạ viện năm 1919 tại Harta, Đảng Nhân dân Ba Lan Piast đã giành được 99,2% số phiếu hợp lệ, với tỷ lệ cử tri đi bầu hợp lệ cũng là 99,2%; giúp cho đảng có được 6,7% tổng số phiếu bầu trong huyện.[146] Các cuộc bầu cử tiếp theo năm 1922, 19281930 có tỷ lệ cử tri đi bầu thấp hơn nhưng cũng có chiến thắng quyết định cho đảng nhân dân. Năm 1922, Piast giành chiến thắng với 95,7% số phiếu ở Harta.[147] Năm 1928, Đảng Nông dân (tiếng Ba Lan: Stronnictwo Chłopskie) giành chiến thắng với 95,4% số phiếu.[148] Năm 1930, liên minh Centrolew của các đảng đối lập cũng giành chiến thắng với 89,9% số phiếu.[149]

Năm bầu cửSố lượng cử triTỷ lệ bỏ phiếu (số phiếu bầu)Đắc cử % phiếu bầu
(số phiếu bầu)
Nguồn
1919101999,2% (1011)Đảng Nhân dân Ba Lan "Piast"99,2% (1003)[146]
1922109077,8% (848)Đảng Nhân dân Ba Lan "Piast"95,7% (810)[147]
1928129689,7% (1163)Đảng Nông dân95,4% (1107)[148]
1930129781,6% (1058)Liên minh Centrolew89,9% (951)[149]

Sau Thế chiến thứ nhất, dân số làng quá đông nhưng lại thiếu nam giới và lực lượng lao động. Đất nông nghiệp bị manh mún nhiều và mức sống thấp.[150] Thu nhập chỉ ở mức tối thiểu: cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, một trang trại rộng 5 ha thu được 300 zloty Rhine và chi phí hàng năm lên tới 538 zloty.[151] Cuộc sống nông dân bấp bênh vì hay bị mất mùa: vụ mùa năm 1897 bị ghi lại là tồi tệ; còn tháng 6 năm 1898, mưa đá tàn phá nặng nề hàng chục trang trại đã gieo hạt.[152] Cải cách nông nghiệp và chia thửa trang viên[153] đã phần nào cải thiện tình hình, nhà Skrzyński chia lại các trang trại ở Harta và Lipnik.[154] Tuy vậy, quy mô phân chia không lớn, như Lipnik chỉ chia 9,4 ha năm 1929 và 24,6 ha nữa năm 1931,[155] trong khi lãnh địa của Zdzisław Skrzyński ở Harta lên tới 818 ha (31,9% tổng diện tích đất trong làng).[132]

Harta có tỷ lệ di cư rất cao. Năm 1913, 580 người (bao gồm cả làng Szklary) định cư ở nước ngoài.[156] Chủ yếu là Hoa Kỳ,[157] Pháp, ĐứcLatvia, những nơi có nhiều công việc thời vụ.[158] Dù vậy, huyện Brzozów năm 1939 vẫn có khoảng 35.000 người "không có việc làm".[159]

Thập niên 1930, khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đến Harta, nơi đa phần lớn dân số kiếm sống trên các thửa đất nhỏ. Sản xuất nông nghiệp suy giảm cộng với thất nghiệp và nghèo đói.[160][161] Kế hoạch xây dựng tuyến đường sắt Rzeszów–Błażowa–Brzozów–Sanok thất bại cũng cản trở sự phát triển.[162] Khu công nghiệp trung tâm (tiếng Ba Lan: Centralny Okręg Przemysłowy) không giúp cải thiện đời sống người dân.[163] Tình trạng sức khỏe chung ngày càng sa sút, suy dinh dưỡng gây ra nhiều bệnh tật, trong đó nhiều nguyên nhân do bệnh lao.[164] Năm 1906 xảy ra dịch sốt phát ban ở Harta;[165] còn năm 1921 lại có dịch lỵ tả.[109] Nhiều người lâm cảnh nợ nần vì giá nông sản suy giảm nhưng lại không được giảm tô thuế.[159] Cảnh sát đã tham gia trừng phạt bắt bớ một số nông nô (bailiff).[164] Năm 1938, xưởng chưng cất rượu bị cháy trong vài ngày.[166]

Trước tình hình kinh tế xã hội như vậy, Ban chấp hành tối cao Đảng Nhân dân phải tuyên bố đình công toàn quốc kéo dài 10 ngày. Nông dân không bán nông sản và cũng hạn chế đến trang trại làm việc.[167] Harta diễn ra cuộc họp chi tiết cho vấn đề này, cắt cử cả nhân sự theo dõi và canh gác, từ đó dẫn đến đình công toàn huyện Brzozów.[168] Ngày 15 tháng 8 năm 1937, tại quảng trường họp chợ ở Dynów đã diễn ra mít tinh.[169] Hôm sau, 16 tháng 8, nông dân lập ra các đồn bốt trên những lối dẫn tới Dynów.[170] Ngày 17 tháng 8, cảnh sát Dynów ra tay đàn áp triệt hạ nông dân.[171]

Đỉnh điểm xảy ra ngày 19 tháng 8.[172][173] Buổi sáng, đông người tụ tập ở Bachórz và bị cảnh sát giải tán.[170] Tin tức lan nhanh khắp vùng, ngay trong ngày, 5.000 người đổ ra tập trung tại ngã tư gần nhà máy ở Harta, rào chắn đường từ Przemyśl đến Krosno.[171] Buổi tối, cảnh sát được huy động đến. Từ trong đám đông bắn ra một phát súng vào cảnh sát và họ nổ súng đáp trả. Hai người chết tại chỗ (Andrzej Galej từ Harta và Stanisław Surmacz từ Laskówka),[170] một người (Józef Potoczny từ Harta) bị thương và tử vong sau đó[174] (theo các nguồn tin khác, Potoczny chỉ bị thương nặng ở chân)[175] và sáu người bị thương nặng.[171]

Sau khi giải tán cuộc đình công, cảnh sát bình định các làng xung quanh. Huyện Brzozów có 119 trang trại bị phá hủy, 77 ở Harta; nhà cửa, công cụ và cây trồng bị phá hủy.[170] 128 người bị bắt (24 người từ Harta) đưa đi giam tại Brzozów và Lviv. Trong các phiên tòa sau đó ở Rzeszów, 6 người bị kết án từ 1,5 đến 3 năm tù.[176]

Vụ việc năm 1937 kết thúc bằng việc sát hại cảnh sát trưởng Jan Kunik tại Dynów ngày 14 tháng 9,[173] một cảnh sát khác bị thương nặng, không tìm ra thủ phạm.[177] Đảng Nhân dân tiếp tục lên kế hoạch phá hủy đường sá và cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc nhằm hạn chế chính quyền can thiệp nhanh khi nổ ra đình công. Kế hoạch bị gián đoạn do Thế chiến II bùng nổ năm 1939.[178]

Thế chiến thứ hai

Đêm 6 ngày 7 tháng 9 năm 1939, sở chỉ huy Tập đoàn quân Karpat của tướng Kazimierz Fabrycy đóng ở Bachórz.[179] Ngày 12 tháng 9, Trung đoàn bộ binh 17 Ba Lan đụng độ quân Đức do trung tá Beniamin Kotarba chỉ huy ở gần Harta.[180] Ngày 13 tháng 9, thống chế Đức Wilhelm List chỉ huy Tập đoàn quân 14 tiến vào, kết thúc chiến dịch tháng 9 tại vùng này.[181]

Khi Đức chiếm đóng, dân chúng buộc phải giao nộp gia súc, lợn và ngũ cốc, nếu không sẽ bị xử tử.[182] Dịch bệnh lan tràn như lao, kiết lỵ năm 1941 và thương hàn năm 1942.[183] Quân Đức thường xuyên bắt giết. Ngày 21 tháng 5 năm 1943, quân Đức giết bảy người ở Harta[184] và bắt khoảng 50 người đến trại lao động Szebnie, rồi đến trại Auschwitz, nhiều người đã không thể trở về.[185] Quân Đức cũng hay tổ chức rà soát cướp bóc, điển hình là tấn công nhà thờ giáo xứ Harta ngày 1 tháng 12 năm 1942,[186] giết chết cha xứ Andrzej Trzyna.[187]

Harta có một ít người Do Thái trước chiến tranh (16 người năm 1938[135]) và có những trường hợp người Do Thái được che giấu trong thời gian bị chiếm đóng. Từ năm 1941 đến tháng 9 năm 1943, Józef Lejba người Do Thái ẩn náu tại đây nhưng bị chỉ điểm và bị Đức Quốc xã bắn chết. Người che giấu ông là Katarzyna Kiszka thì bị đưa đến trại Auschwitz và qua đời tháng 6 năm 1944.[188][189][190]

Từ năm 1940, Đảng Nhân dân Racławice âm mưu tổ chức phong trào kháng chiến.[136] Một năm sau, phong trào nhập vào Liên minh đấu tranh vũ trang.[191] Từ đầu năm 1944, phong trào trở thành đơn vị tiền đồn Dynów trong Armia Krajowa[192] với 63 lính.[193] Lúc đầu, binh lính không được tranh bị đầy đủ nhưng sau đó cải thiện hơn nhờ quân Đồng minh thả vũ khí xuống, một trong số đó diễn ra vào đêm 27-28 tháng 4 năm 1944 tại rừng Paproć.[194][195]

Tháng 4 năm 1944, quân Đức rút khỏi mặt trận phía Đông đến vùng này. Cuối tháng 7, Armia Krajowa phát động Chiến dịch Burza (Bão táp) huy động tiền đồn Dynów và Błażów tấn công quân Đức, phá hủy xe cộ và thu giữ vũ khí, đạn dược.[196]

Sau ngày 23 tháng 7, nổ ra giao tranh giữa quân Đức và Liên Xô.[197] Trận chiến chính là tranh giành Dynów diễn ra từ chiều 26 đến sáng 28 tháng 7, tàn quân Đức buộc phải bỏ chạy.[198] Tập đoàn quân 38 Phương diện quân Ukraina 1 dưới sự chỉ huy của tướng Kirill Moskalenko kiểm soát Dynów.[199]

Harta không bị người Ukraina thanh trừng sắc tộc như diễn ra ở Dynów và vùng phụ cận, khi mà nhiều thị trấn bị phá hủy, trong đó có Dylągowa và Pazwoloma.[200]

Ngày 14-19 tháng 3 năm 1945, NKVD đến bình định Dynów và vùng phụ cận, quân Ba Lan phòng thủ lại tưởng rằng chỉ đang giao tranh với người Ukraina thôi,[201] kết quả một số người thiệt mạng và hàng trăm người bị bắt.[202] Chín người Harta cùng hàng chục người trong đó[203] bị bắt đến trại lao động Bajdayevka gần Novokuznetsk một tháng sau. Họ phải ở đó bốn tháng và được thả về Ba Lan tháng 8 năm 1945.[204]

Tháng 2 năm 1945, Armia Krajowa bắt đầu quá trình giải thể tại Dynows và kết thúc ngày 30 tháng 4 trong cuộc họp chỉ huy tại Harta,[205][206] chuyển sang tiếp tục hoạt động ngầm,[207] thuộc nhóm Hiệp hội Tự do và Độc lập (tiếng Ba Lan: Wolność i Niezawisłość -WiN) được thành lập cuối năm. Đầu năm 1946, mạng lưới WiN ở Dynów trực thuộc WiN Brzozów.[208]

Các tổ chức ngầm tại Harta có hành động tiêu biểu như thu 11.000 zloty tại hội xuân làng để mua vũ khí,[209] xử tử hai dân làng vào tháng 11 năm 1945 vì tội trộm cướp.[210] Tháng 5 năm 1946, chính quyền tiến hành hoạt động quy mô lớn nhằm tiêu diệt các tổ chức ngầm.[211] Đồng thời, sau khi ban bố luật ân xá năm 1947, tổ chức ngầm tại Harta tách khỏi Brzozów và ngừng hoạt động mùa xuân năm đó.[212]

Hậu chiến và đương đại

Nhà cộng đồng Harta Górna, mở cửa năm 1962.

Sau khi kết thúc Thế chiến II, Harta và vùng phụ cận dần phát triển.[213] Cải cách nông nghiệp và nỗ lực tập thể hóa không thành công, rồi đến thành lập trang trại quốc doanh.[214] Dân chúng phản đối nên dù có kế hoạch nhưng Harta không bị lập trang trại như vậy.[215] Chỉ có hãng sữa trong làng bị quốc hữu hóa.[216]

Thập niên 1950, đường làng được cải tạo theo sáng kiến xã hội.[217] Kèm theo đó là sự ra đời của xưởng gạch phục vụ cho các kế hoạch xây dựng tiếp theo như nhà cộng đồng, trường học và trạm cứu hỏa.[170]

Không gian cộng đồng dân gian vốn được người sáng lập TSL Antoni Kusy đề xuất cho Harta Górna và tổ chức diễn thuyết phổ biến cho cộng đồng Harta.[218] Tuy vậy, nó cũng gây gánh nặng cho hoạt động của trường học, nên xuất hiện ý tưởng phải có được tòa nhà riêng. Ý tưởng này trở lại trong cuộc họp cộng đồng năm 1957 và thành lập ủy ban xây dựng. Tháng 6 năm 1962, khai trương nhà văn hóa cộng đồng.[219]

Ngay sau đó, Harta tiến hành xây dựng trường học mới và hoàn tất năm 1963.[220] Đây được coi là công trình thiên niên kỷ của huyện Brzozów.[221] Tháng 6 năm 1963, trường Bohaterów Walk Chłopskich (Anh hùng nông dân tranh đấu) khai giảng niên khóa mới.[222]

Năm 1964, Đội cứu hỏa tình nguyện tiếp nhận xưởng gạch để nâng cấp và bắt đầu nung gạch để xây dựng trạm cứu hỏa, kéo dài đến 12 năm. Năm 1976, tòa nhà Đội cứu hỏa tình nguyện Harta hoàn tất và đưa vào sử dụng.[223] Từ nửa cuối thập niên 1960 cho đến thập niên 1970, Harta xây dựng được tòa nhà giảng dạy gọi là "nhà nông học".[224]

Giữa năm 1952, làng có sóng phát thanh.[225] Cuối thập niên 1950, sau nhiều năm nỗ lực, quá trình điện khí hóa mới bắt đầu và kéo dài hai thập kỷ. Tháng 6 năm 1958, các trang trại đầu tiên được kết nối với lưới điện,[170] và toàn bộ quá trình hoàn tất năm 1974.[215]

Ngày 18 tháng 8 năm 1957, đài tưởng niệm được dựng lên tại địa điểm nhân kỷ niệm nông dân nổi dậy năm 1937.[226] Tháng 6 năm 1963, trường tiểu học mới ở Harta Dolna cũng đặt theo tên này. Năm 1984, đài tưởng niệm được tái thiết và tôn tạo, đồng thời dựng một tháp (obelisk) trước cổng trường năm 1987.[222]

Năm 1975, trong quá trình hợp nhất các doanh nghiệp nhỏ thành tổ hợp lớn, Hợp tác xã Sữa (tiếng Ba Lan: Okręgowa Spółdzielnia Mleczarska -OSM) huyện Brzozów tiếp quản xưởng sữa Harta rồi vài tháng sau lại chuyển giao cho OSM Przemyśl.[128] Khi ấy, xưởng sữa là cơ sở công nghiệp lớn duy nhất của làng; có 36 người làm việc năm 1970.[227] Xưởng chuyên sản xuất bơ và một số loại pho mát[228] như pho mát Baltic.[229]

Toàn cảnh Harta Dolna nhìn từ nghĩa trang giáo xứ. Phía sau bên phải là Trường tiểu học.

Đầu thập niên 1990, Harta có những thay đổi to lớn. Theo quyết định 24 tháng 2 năm 1991, công ty sữa Harta (46 người) tách khỏi OSM Przemyśl để đứng độc lập.[230] Nhưng vài tháng sau, OSM Przemyśl rút lại quyết định và tuyên bố phá sản, xưởng sữa Harta cũng bị phát mại. Harta cố gắng cứu lấy nhà máy nhưng không thành (huy động tiền từ Quỹ tái cơ cấu nông nghiệp[128][129] và bán xưởng sữa tư nhân Błażowa).[231]

Đầu thập niên 1990 cũng bắt đầu xây dựng đường dẫn khí đốt qua Harta,[232][233] cũng như hạ tầng kết nối cáp điện thoại.[234] Đường ống dẫn khí đốt từ mỏ Husów gần Łańcut đến Bachórz và xa hơn tới Harta là ý tưởng của phó thủ tướng năm 1982–1988 Zbigniew Szałajda sống ở Dynów.[235] Ủy ban Khí hóa Làng Harta được thành lập cho mục đích này, được tài trợ đóng góp từ nhiều nguồn, Quỹ Hỗ trợ Làng Ba Lan và các quỹ Châu Âu.[236] Quá trình khí hóa kết thúc năm 1994[237] và tuyến điện thoại hoàn thành năm 1999.[238]

Thế kỷ 21, Harta nhận một số khoản đầu tư lớn như: xây dựng phòng thể dục tại trường học ở Harta Dolna, hai lần cải tạo tuyến giao thông chính của huyện,[239][240] mở rộng mạng lưới đường nông thôn,[241] và cải tạo Nhà cộng đồng,[242] trạm cứu hỏa[243] và nhà thờ ở Harta Górna,[241] cùng một phần nhà thờ ở Harta Dolna.[244] Làng cũng có cáp quang Internet chạy tới.[245] Harta được kết nối một phần với mạng lưới thoát nước.[246] Một số tổ chức văn hóa xã hội được thành lập: ban nhạc Młoda Harta [247], Hiệp hội phát triển văn hóa và nông thôn Harta,[248] Câu lạc bộ hiến máu danh dự Nadzieja[249] và câu lạc bộ thể thao Orzeł Harta.[250]

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Harta, Ba Lan http://www.skany.przemysl.ap.gov.pl/show.php?zesp=... http://www.skany.przemysl.ap.gov.pl/show.php?zesp=... https://repozytorium.amu.edu.pl/handle/10593/26990 https://crispa.uw.edu.pl/object/files/12908/displa... http://www.slownik.ihpan.edu.pl/browse.php?d=8 https://www.worldcat.org/issn/2353-8945 https://www.worldcat.org/issn/1234-6063 https://www.worldcat.org/issn/0081-3834 https://www.worldcat.org/issn/2719-6860 https://web.archive.org/web/20231005150723/http://...